Đầu năm Quý Tỵ 2013, thân chúc quí bạn bình tâm tin tưởng vào tương lai qua mấy câu sấm của cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm !
Trạng Trình NGUYỄN BỈNH KHIÊM (1491 – 1585)
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) sinh năm Tân hợi đời vua Lê Thánh Tông Hồng Ðức thứ 22 tại làng
Trung Am, huyện Vĩnh Lại, phủ Hạ Hồng, trấn Hải Dương (nay thuộc xã Lý
Học, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) Thân
phụ của ông là giám sinh Nguyễn Văn Định, nổi tiếng hay chữ nhưng chưa
hiển đạt trong đường khoa cử. Thân mẫu là bà Nhữ Thị Thục, con gái út
của Thượng thư bộ hộ Nhữ Văn Lan triều Lê Thánh Tông. Quê ông ở làng An
Tử Hạ, huyện Tiên Minh, phủ Nam Sách, trấn Hải Dương (nay là thôn Nam
Tử, xã Kiến Thiết, huyện Tiên Lãng, Hải Phòng.
Theo tài liệu để lại bà Nhữ Thị Thục là
bậc nữ lưu tài hoa giỏi văn chương và tài học về lý số. Biết trước những
gì có thể xảy ra và mộng lớn con cái nên danh phận. Nguyễn Bỉnh Khiêm
lúc trẻ học với Lương Ðắc Bằng từng là đại thần giữ chức Thượng thư dưới
triều Lê sơ, ông dâng những điều trần nhằm ổn định triều chính không
được vua Lê thi hành, Lương Đắc Bằng cáo quan về quê sống đời dạy học
(1509).
Nguyễn Bỉnh Khiêm thông minh chăm chỉ trở
thành học trò xuất sắc. Bởi vậy trước khi qua đời, Bảng nhãn Lương Đắc
Bằng trao cho Nguyễn Bỉnh Khiêm bộ sách quý về Dịch học (Chu Dịch) là
Thái Ất thần kinh, từ đó ông tinh thông về lý học và tướng số, nghiên
cứu về lý số với thiên tài “thần thông” có khả năng siêu quần, quán
chúng về thấu thị, thần giao cách cảm, Nguyễn Bỉnh Khiêm bỏ qua 9 kỳ đại
khoa (trong đó có 6 khoa thi dưới triều Lê sơ). Ngay cả khi nhà Mạc lên
thay nhà Lê sơ (1527), xã hội dần đi vào ổn định nhưng Nguyễn Bỉnh
Khiêm cũng không vội vã ra ứng thí (ông không tham dự 2 khoa thi đầu
tiên dưới triều Mạc). Tới năm Đại Chính thứ sáu (1535) đời Mạc Thái Tông
(Mạc Đăng Doanh) thịnh trị vương đạo nhất triều Mạc (1527-1592), ông
quyết định đi thi và đậu ngay Trạng Nguyên.
Năm ấy ông đã 45 tuổi. được bổ nhiệm làm
Đông Các hiệu thư rồi sau giữ nhiều chức vụ khác nhau như Tả Thị Lang Bộ
Hình, Tả Thị Lang Bộ Lại, kiêm Đông Các Đại Học, làm quan được 8 năm,
ông dâng sớ hạch tội 18 lộng thần vua không nghe. Ông cáo quan năm 1542
về vườn, lập Bạch Vân Am và hiệu Bạch Vân Cư Sĩ mở trường dạy học cạnh
sông Hàn Giang còn có tên Tuyết Giang, các môn sinh tôn ông là “Tuyết
Giang phu tử”. môn sinh của ông có nhiều người hiển đạt sau này như
Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Trương Thời Cử, Đinh Thời Trung, Hàn
Giang cư sĩ Nguyễn Văn Chính (con trai cả của ông)… thơ Trạng Trình với
triết lý của Thái Ất là nguồn tri thứchữu thể, về đời sống nhân sinh với
càng khôn trong vũ trụ. Thái Ất còn gọi là Lý Thiên, Lý Địa và Lý nhân.
Khởi thức hưng vong thế cổ kim
Nhàn trung hoa thảo túc cung xuân
Tà dương độc lập đô vô sự
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…
Dù Nguyễn Bỉnh Khiên không còn làm quan,
nhưng vua Mạc Phúc Hải phong cho ông tước Trình Nguyên Hầu vào năm Giáp
thìn (1544), ngụ ý đề cao ông có công khơi nguồn ngành lý học, sau đó
được thăng chức Thượng Thư Bộ Lại, tước hiệu Trình Quốc Công. Từ đó
người đời gọi ông là Trạng Trình. Nhờ học phương pháp tính theo Thái Ất,
tiên đoán được biến cố trước và sau 500 năm. Người Trung Hoa khen Trạng
trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “An Nam lý học hữu Trình Tuyền”.
Tục truyền rằng Năm Bính ngọ (1546) Mạc
Phúc Hải mất truyền ngôi lại cho con Mạc Phúc Nguyên mãi đến năm Mậu
Thân (1548) vua Trang Tông mất, Trịnh Kiểm lập Thái tử tên Duy Huyên lên
ngôi tức Trung Tông được 8 năm thì mất không có con nối nghiệp. Trịnh
Kiểm muốn làm vua nhưng còn sợ dư luận, nên sai người đến Hải Dương hỏi ý
khiến Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. ông không chỉ bảo người giúp việc
ngụ ý : “năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ, gữi chùa thờ Phật thì ăn oản.. “ Sau đó Trịnh Kiểm tìm con cháu họ Lê lên làm vua.
Dù Trạng Trình ở ẩn, vua Mạc cũng như các
chúa Trịnh, chúa Nguyễn có việc hệ trọng vẫn cho người đến hỏi ý ông.
Ông thường kín đáo khuyên Vua cố gắng tránh chiến tranh để nhân dân khỏi
chết chóc. Trong năm Quang Thiêu (Lê Chiêu Tôn) có việc biến loạn,
Nguyễn Bỉnh Khiêm không muốn tiếng tăm với đời lúc bấy giờ Trịnh Tuy,
Mạc Ðăng Dung cũng cố ý muốn tranh quyền, đánh nhau mấy năm dài. Ông
tính số Thái Ất, biết nhà Lê lại khôi phục được và làm bài thơ:
Thú đánh nhau chi khéo nực cười
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổỉ
Núi xương sông tuyết, thảm đầy vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ (1)
Thú dữ nên phòng lúc cắn người (2)
Ngán ngẫm việc đời chi nói nữa
Bên đầm say hát, nhởn nhơ chơi
Sau khi nhà Lê bị Mạc Đăng Dung
(1483-1541) chiếm ngôi, con của vị tướng triều Lê là Nguyễn Hoàng Dụ
trốn sang Lào, được vua Lào cho nương náu ở xứ Cẩm Châu, trấn Nam Phủ,
tỉnh Thanh Hóa. Năm Quý Tỵ (1532) Nguyễn Kim lập con út vua Chiêu Tông
lên làm vua, gọi là Trang Tông. Để mưu đồ đại sự, Nguyễn Kim (1467-1545)
thu nạp kiện tướng ở tỉnh Thanh Hóa là Trịnh Kiểm, sau là rể của Nguyễn
Kim. Năm Canh Tý (1540), Nguyễn Kim đem quân đánh chiếm Nghệ An và thu
phục luôn cả Thanh Hóa. Nhưng bỗng dưng Nguyễn Kim chết vì ngộ độc
(1545), mọi bình quyền về tay Trịnh Kiểm. Việt Nam lúc bấy giờ bị chia
đôi : từ Sơn Nam trở ra thuộc nhà Mạc, gọi là Bắc Triều. Từ Thanh Hóa
trở vào là khu vực của nhà Lê hay gọi là Nam Triều.
Nguyễn Kim mất, để lại hai người con trai
là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng (1525-1613) cả hai tuy còn ít tuổi nhưng
đã bộc lộ tài năng xuất sắc hơn người. Trịnh Kiểm lo sợ cả hai sau này
có thể tranh giành địa vị với mình, nên ngấm ngầm ngăn trở dù Nguyễn
Uông chỉ mắc một lỗi nhỏ, Trịnh Kiểm cũng buộc Nguyễn Uông phải chịu
phép gia hình.
Nguyễn
Hoàng thấy anh bị hại, sợ đến lượt mình, liền cử người kín đáo lên hỏi
Trạng Trình. Trạng không trả lời cụ thể, chỉ đứng ngắm đàn kiến bò trên
hòn non bộ trước sân nhà và nói một câu :
Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân.
Nghĩa là từ núi đèo ngang ở Quảng Bình
kia có thể yên thân được muôn đời. Từ câu nói đó, Nguyễn Hoàng nghiệm ra
rằng trạng Trình bày cho kế đi vào phương Nam lập nghiệp. Từ năm 1558
Nguyễn Hoàng vội vàng đến nói riêng với chị là bà Ngọc Bảo xin Trịnh
Kiểm cho vào trấn phiá Nam, năm Mậu ngọ (1558) đời vua Anh Tông Trịnh
Kiểm tâu vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa, phía Nam dãy Hoành
Sơn. Nhờ thế mà lập nên cơ nghiệp của họ Nguyễn ở Đàng Trong, truyền
nối lâu dài.
Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan, có lòng
nhân đức thu dụng hào kiệt giúp dân cho nên được lòng dân kính phục.
Trấn giữ đất Thuận Hóa, mở đầu cho triều đình nhà Nguyễn từ từ khai phá
cho đến vùng đồng bằng sông Cửu Long ngày nay. Ngoài ra rất nhiều lời
sấm được lưu truyền qua dân gian nhiều lời bàn diễn giải khác nhau như
câu: ” Cẩu vĩ trư đầu, xuất thánh nhân ” ứng nghiệm vào việc vua
Gia Long lên ngôi từ (1802-1819) thống nhất sơn hà vào năm Nhâm tuất
ngày 02/05/1802. trải qua 13 triều đại. Hoàng đế cuối cùng Bảo Ðại trị
vì từ 1929 và thoái vị năm 1945.
Tương truyền Trạng Trình nói trước nhà Mạc suy vong, ông đọc hai câu thơ : “Cao Bằng tàng tại- tam đại tồn cô”
(nghĩa rằng rút về đất Cao Bằng thì sẽ sống thêm được ba đời nữa) con
cháu họ Mạc về đất Cao bằng tuy nhỏ nhưng được 3 đời là Mạc Kính Cung,
Mạc Kinh Khoan và Mạc Kinh Vũ. Dòng dõi họ Mạc bị bắt, bị giết nhiều
người đổi họ lưu lạc khắp nơi để mưu cầu sự sống.
Trạng Trình có 3 người vợ và 12 người con
(7 trai 5 gái) các con trai đều có chức tước sau nầy. Ông mất ngày 28
tháng 11 năm Đinh dậu, niên hiệu Diên Thành thứ 8 nhà Mạc (1585) hưởng
thọ 94 tuổi. Theo sử sách Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có công
lớn đối với triều đình nhà Mạc nên sau khi mất (1585) vua Mạc Mậu Hợp
ứng cử Ứng Vương Mạc Đôn Nhượng, phụ chính triều đình làm khâm sai cùng
với văn võ bá quan về dự lễ tang. Tháng Giêng năm sau (1586), vua Mạc
ban cho làng Trung Am 3.000 quan tiền để lập đền thờ ông và cấp 100 mẫu
ruộng để lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng. Đền thờ được dựng trên nền
Giảng học – Am Bạch Vân và tự tay nhà vua đề biển ngạch :“Mạc Triều Trạng Nguyên Tể Tướng Từ” (Đền
thờ Tể tướng Trạng nguyên Triều Mạc). Trải qua những biến cố lịch sử
ngôi đền được trùng tu, xây dựng lại nhiều lần vào các năm : Vĩnh Hựu
nguyên niên (Ất Mão 1735, đời vua Lê Ý Tông); Minh Mạng thập tứ (1833).
Ngôi đền hiện nay được dựng lại vào năm Mậu Thìn (1928) đời vua Bảo Đại.
Đến năm 1985, nhân kỷ niệm 400 năm ngày mất của ông, một lần nữa đền
lại được trùng tu làm thêm nhà khách, hồ nước, cổng đền, tường bao,
đường vào đền…
Trước
khi qua đời, Trạng trình có ghi vào gia phả và dặn con cháu rằng : Bình
sinh ta có tấm bia đá sẵn và đã sơn kia. Khi ta mất rồi, hễ hạ quan tài
xuống phải để tấm bia đá ấy lên nắp rồi lấp đất. Chờ khi nào có khách
tới viếng mộ và nói rằng : “Thánh nhân mắt mù” thì phải lập tức
mời người ấy vào nhà, yêu cầu họ đổi hướng lại ngôi mộ cho ta. Nếu trái
lời ta, dòng dõi về sau sẽ suy đồi lụn bại đấy. Con cháu nghe lời, làm y
như đã dặn.
Nhưng chờ mãi đến năm mươi năm sau, mới
có người khách đến nhìn mộ cụ một lúc rồi nói : Cái huyệt ở đằng chân sờ
sờ thế kia mà không biết, lại tự đem để mả thế này. Vậy mà thánh nhân
gì chớ, hoạ chăng là thánh nhân mắt mù. Người trong họ nghe được, chạy
về báo với trưởng tộc. Ông này vội vàng ra đón người khách Tàu kia về
nhà, xin để xoay ngôi mộ kia lại. Ra đó là một nhà phong thuỷ (Feng
Shui) trứ danh ở phương Bắc. Ông ta sang là để đi tìm xem di tích của
Trạng, bấy lâu ông ta đã nghe tiếng đồn. Khi nghe vị trưởng tộc nói, ông
ta sẵn lòng làm ngay, và tự đắc cho rằng mình giỏi hơn Trạng Trình. Ông
ta bảo : Không cần phải đem đi đâu xa cả, chỉ đào lên rồi xoay lại,
nhích đi một chút là được. Ông trưởng tộc bèn tụ họp con cháu lại, đưa
thầy địa lý Tàu ra đổi lại ngôi mộ. Lúc đào đến tấm bia đá, ông ta làm
lạ bảo đem rửa sạch xem những gì trên đó. Khi tấm bia được rửa sạch, mới
thấy mấy câu thơ hiện ra, tạm dịch nghĩa :
Ngày nay mạch lộn xuống chân
Năm mươi năm trước mạch dâng đằng đầu.
Biết gì những kẻ sinh sau ?
Thánh nhân mắt có mù đâu bao giờ ?
Đọc tới đâu vị khách Tàu phải khâm phục
Trạng Trình mà ông ta nghe đồn là giỏi thật. Năm 1930 Việt Nam Quốc Dân
Ðảng lãnh tụ Nguyễn Thái Học (1901-1930) lãnh đạo cuộc tổng khởi nghiã
ngày 10.2.1930 đánh Tây ở các tỉnh : Yên Bái, Hưng Hóa, Lâm Thao, Hải
Dương, Kiến An. Thất bại bị Pháp điên cuồng ném bom tàn phá làng Bảo An
để trả thù. Có lời đồn Trạng Trình đã tiên đoán :
Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc rung Nam rung tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am cây
Lâm giang nổi gió mù thao cát
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy
Một ngựa một yên ai sùng bái
Nhắn tin nhà vĩnh bảo cho hay
Thoát nạn sập nhà
Trạng Trình giao cho con cháu một ống tre
sơn son thếp vàng, bịt kín hai đầu, và dặn đúng năm tháng ấy, ngày giờ
ấy, phải để cái ống ấy vào kiệu rước lên dinh Thống đốc Hải Dương, trao
cái ống này cho quan thì sẽ cứu được tình thế gia đình. Khi Trạng mất,
hằng trăm năm sau, con cháu Trạng lâm vào cảnh đói nghèo, sa sút, nhưng
tuyệt đối không được mở ống ra xem trước thời hạn. Trạng còn dặn kỹ trừ
quan Tổng đốc ra, không ai được mở ống, vì thế ống vẫn giữ nguyên vẹn.
Trải qua bảy đời, cái ống tre ấy mới được rước lên dinh quan Tổng đốc,
đúng ngày giờ đã ghi trong gia phả. Đang nằm nghỉ, nghe tin con cháu cụ
Trạng mang thư đến gặp, quan Tổng đốc rất ngạc nhiên, không biết vì cớ
gì, nên truyền cho vào, đồng thời quan ngồi dậy để đi ra cửa.
Quan Tổng đốc vừa bước khỏi giường nằm
được mấy bước thì bỗng rầm một cái, chiếc sà nhà không biết bị mọt ăn
hỏng từ bao giờ, rơi ngay xuống chỗ giường vừa nằm. Thật là một phen hú
vía ! Nếu ông không kịp ngồi dậy nhận thư Trạng, thì mạng ông đã khó mà
sinh tồn.
Quan Tổng đốc mở ống tre ra xem, thấy bên trong có một cuộn giấy, đề hai câu thơ :
Ngã giải nhĩ thượng lương chi ách,
Nhĩ cứu ngã tử tôn chi bần
Nghiã là
Cứu người thoát nạn đổ nhà,
Ngươi nên cứu cháu con ta khỏi nghèo
Chưa hết kinh hoàng vì chuyện chiếc sà
nhà vừa rơi xuống, ông thoát nạn nhờ ra lấy lá thư. Quan Tổng đốc biết
rằng Trạng Trình cứu ông thoát chết, nên ông ta ân cần mời cháu Trạng
Trình về tư thất đãi hậu hỹ, sau đó đưa ra rất nhiều tiền giúp khỏi cảnh
nghèo đói.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) phá đền
Năm Minh Mạng (1791-1840) năm thứ 14,
Nguyễn Công Trứ được vua điều đi khẩn hoang ở vùng Hải Dương, Nguyễn
Công Trứ thấy địa thế cần phải đào con sông, đào sông thì phải phá đền
thờ Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông ra lệnh cho dân phu phá đền để
khai phá công trường. Khi sai người đào mang bát hương ra, Nguyễn Công
Trứ chợt thấy dưới bát hương có một tấm bia đá nhỏ phủ vải điều. Nguyễn
Công Trứ lau sạch đọc được các câu đã ghi :
Thằng Trứ phá đền
Phá đền phải làm đền
Nào ai đụng đến doanh điền nhà bay
Nguyễn Công Trứ lập tức viết sớ về kinh,
xin bãi bỏ lệnh phá đền. Ông còn cho người sửa sang lại đền Trạng Trình
khang trang hơn. Từ đó ông không còn nghĩ đến việc phá đền để đào sông
nữa.
Cha con thằng Khả
Tục truyền trong làng có cha con ông Khả
đi bắt dế (chuột) kiếm sống. Khi đến bên mộ Trạng, hai cha con vướng víu
thế nào lại làm đổ tấm bia trên mộ. Dân làng rất sùng kính Trạng Trình,
nên khi thấy bia mộ bị đổ, họ nổi giận bắt cả hai cha con, kêu nộp phạt
ba quan tiền mới tha, vì khi tấm bia đổ xuống thấy có hàng chữ ở sau :
Đánh ngã bia tao
Làng xóm xôn xao
Bắt đền quan tám
Cha con ông Khả chịu nộp phạt, nhưng dân
làng phải tha cha con về nhà chạy tiền. chỉ tìm được có một quan tám,
dân làng không chịu, cha con ông Khả ngẫm nghĩ phải nói với dân làng:
Cha con tôi bị Trạng Trình bắt phạt có quan tám, “Tam quán” nói lái lại
thành quan tám.
Thời gian và thế sự xoay vần
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra (2009)
Hùm gầm khắp nẽo gần xa (2010)
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời (2011)
Rồng bay năm vẽ sáng ngời (2012)
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng (2013)
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng.(2014)
Những điều tiên đoán trên, liên quan với
hiện tình đất nước Việt Nam. Hy vọng năm 2013 Qúy Tỵ cầm tinh con rắn,
Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn lịch sử mới mẻ hơn, người dân biết những
gì xảy ra tại các nước khác, giới trẻ ra nước ngoài học và trở về.
Thơ văn của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Kiêm
còn lại hơn 100 bài trong bộ Bạch Vân Thi Tập, được dịch ra chữ quốc
ngữ, thơ mang nặng tình người, khuyên người đời biết điều nhân nghĩa,
ngoài ra còn một số giai thoại truyền tụng trong nhân gian… và những lời
sấm ký có giá trị. Đời sống của tiên sinh thật xứng đáng với câu đối ở
đền thờ tại Bạch Vân Am : “Kế tuyệt, phù suy Chư Cát Lượng – Tri lai, tàng vãng Thiệu Nghiên Phu” (Nối
được cái đã đứt, đỡ được cái đã suy như Chư Cát Lượng. Tìm hiểu việc đã
qua, dự đoán việc mai sau như Thiệu Nghiên Phu). Nhà thờ ở huyện Vĩnh
Bảo, Hải Phòng, có bức hoành phi đại tự ở chính giữa có 4 chữ “An Nam lý học” từ câu “An Nam lý học hữu trình tuyền”
có nghĩa là am hiểu về lý học ở nước An Nam có Trình tuyền hầu (tước vị
của Nguyễn Bỉnh Khiêm), Đặc biệt có một số câu đối nói rõ chính kiến
của ông về thế sự và hậu thế ca ngợi công đức của ông. (theo Nguyễn Qúy Đại)
1/ ứng nghiệm về sau nhà Lê khôi phục – 2/ ứng nghiệm nhà Trịnh giữ nhà Lê
Xuân Mai post
Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi (2008)
Trả lờiXóaTrâu cày ngốc lại chào đời bước ra (2009)
Hùm gầm khắp nẽo gần xa (2010)
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời (2011)
Rồng bay năm vẽ sáng ngời (2012)
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng (2013)
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng.(2014)
Những điều tiên đoán trên, liên quan với hiện tình đất nước Việt Nam. Hy vọng năm 2013 Qúy Tỵ cầm tinh con rắn, Việt Nam sẽ bước vào giai đoạn lịch sử mới mẻ hơn, người dân biết những gì xảy ra tại các nước khác, giới trẻ ra nước ngoài học và trở về
Hay, dung khong chi?
XóaHa ha ha!!! Theo như lời tiên đoán, đến năm 2014 của ngựa hồng, thì quỹ sẽ nhăn răng! (khiếp sợ ngựa mà!)
Trả lờiXóaKhó hiểu lắm, mình nghĩ phải có người chuyên gia mới giải thích được hết nghĩa của những câu sấm truyền này.
XóaHehe vui quá nhẩy. Đầu năm chúc NC vui vẻ hạnh phúc nhé. Nhưng nhớ làm cho chữ to ra một tỳ chứ xem chữ li ti thế này mỏi mắt quả .
Trả lờiXóaVui gì đâu anh. Đầu năm em bị 1 trận cảm nặng, bây giờ mới dậy được đây.
XóaThích đọc quá mà đầu chị lại căng căng ( di chứng của tiền đình máy hôm trươc). Thôi bái kiến, để chiều quay lại vậy ! Em làm chữ to lên nhé! Kèm nhèm rồi!
Trả lờiXóaDạ, em tiếp thu ngay đây ạ.
XóaChị giữ gìn nhé, em cũng mới ốm dậy chị ạ.
Bạn đỡ chưa? Trong vườn có sả, bỏ thêm dầu cao vào, xông đi, nhanh khỏi hơn là uống thuốc đới!
Trả lờiXóaBạn vào điều khiển -tùy chỉnh - nâng cao nó hiện ra bảng màu chữ, cỡ chữ...bạn chọn cỡ chữ khoảng 16-20 gì đó, rồi đừng quên nhìn góc phải phía trên bấm vào"áp dụng cho blog" rồi xem blog là có cỡ chữ to lên thôi! Chỉnh đi! Chữ nhỏ quá! mắt mũi kèm nhèm cả rùi...
Mình cũng không hiểu thế nào cả Ngựa à, mình vẫn làm như rứa mà lúc thì nó to, lúc thì nó nhỏ hệ hệ.
XóaEm đọc thì cũng thấy hay
Trả lờiXóaNhưng mà ngẫm nghĩ...nhăn mày...khó hiêu...
( không hiểu mấy câu sấm truyền ý nghĩa sâu xa là gì ????)
Chị cũng thấy khó hiểu lắm. Mình tuổi Ngựa / Giáp ngọ/, chẳng lẽ sang năm mình biến thành quỉ dữ hehe.
XóaChuột sa chỉnh gạo nằm chơi (2008)
Trả lờiXóaTrâu cày ngốc lại chào đời bước ra (2009)
Hùm gầm khắp nẽo gần xa (2010)
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma tơi bời (2011)
Rồng bay năm vẽ sáng ngời (2012)
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng (2013)
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng.(2014)
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời
Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy nhiêu
Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm lòng
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình.
Hay quá, bài nguyên tác phải không Songviet?
XóaNhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóa