Lịch Sử Tết Dương Lịch – HAPPY NEW YEAR
Sau 12 tháng thì chúng ta lại chuẩn bị đón năm mới, ở các nước Tây Phương thì gọi là New Year người Việt gọi là Tết Dương Lịch. Tết Dương Lịch ở Hoa Kỳ nhằm ngày 01 tháng Giêng. Mọi người nô nức đón năm mới với những lời chúc tụng hạnh phúc, vui vẻ và may mắn. Với các nước Tây Phương, đêm giao thừa là đêm vui nhất, mọi người nô nức vui chơi ở nơi công cộng để chờ đón giây phút giao thừa. Những quả bóng được thả rơi trong giây đầu tiên bắt đầu cho năm mới, pháo bông được bắn lên sáng rực đất trời, mọi người cùng nâng ly chúc tụng nhau trong niềm vui mới. Tết Dương Lịch hiện nay chưa được tất cả các quốc gia trên thế giới chấp nhận ngày 01 tháng Giêng là ngày New Year. Tuy nhiên Tết Dương Lịch vẫn là thời điểm đánh dấu một năm trôi qua và năm mới bắt đầu. Có nhiều người trong chúng ta thắc mắc là không biết Tết Dương Lịch đã có từ bao giờ.
Tết Dương Lịch đã có từ lâu đời, biến đổi qua nhiều thiên kỷ trong lịch sử tiến hóa của loài người và hôm nay vẫn còn tồn tại. Tết Dương Lịch bắt đầu từ thời đại xưa cỗ, mang dấu ấn lịch sử văn minh của con người. Ngày và Giờ được thành lập khác nhau trên từng quốc gia và từng lục địa ảnh hưởng với tiết khí, múi giờ.v.v. đồng thời còn tùy thuộc vào sự khác biệt đa dạng của chủng tộc và nền văn hóa của từng Quốc Gia.
Hiện nay thế giới đón Tết Dương Lịch “New Year” vào ngày 01 tháng Giêng, ngày Tết hôm nay không giống như vài trăm năm trước đây. Sự phổ biến rộng rãi để chấp nhận ngày 01 tháng 01 là ngày Tết Dương Lịch đã liên tục trong bốn trăm năm qua.
Đế Quốc La Mã là Quốc Gia đầu tiên chọn ngày 01 tháng Giêng làm ngày New Year trong năm đầu tiên 153 trước công nguyên. Trước đó ngày 25 tháng 03 là ngày xuân phân (vernal equinox) được chọn là ngày đầu năm Dương Lịch (New Year). Ngày năm mới này đã được đa số những quốc gia Cơ Đốc Giáo ở Âu Châu chấp nhận ( khoảng thời trung cổ 1,100 – 1,400 trước Công Nguyên) Medieval.
Ngày New Year đã trải qua một thời gian khá lâu mới chấp nhận sự thay đổi ngày tháng cho New Year bởi vì có nhiều thành phần quá khó khăn và đầu óc cố hữu của họ. Với ngày tháng tính toán cho New Year không được phổ thông như những phong tục đang được bảo giữ, nó cũng không phải là thời điểm hoa màu hay những vụ mùa đặc biệt gắn liền với ngày tháng đó. Cho nên người ta nghĩ đây chỉ là một ngày bình thường sau mùa bầu cử, sau thời gian các đại biểu trúng cử bắt đầu nhận nhiệm vụ mới trong chính quyền Đế Quốc La Mã mà thôi.
Muốn thay đổi ngày tháng New Year đã có từ trước, là một việc làm to lớn đầy khó khăn cho việc tính toán làm Lịch.
Thời Đế Quốc La Mã, sự thay đổi ngày tháng cho năm mới của họ đã tính ngược lại ba tháng tới tháng giêng (tháng 3- 2- và tháng1 ) tức là tháng Ba trở thành tháng Giêng. Chúng ta không có qui tắc nào của Lịch, trước đây nguyên gốc tháng 09, 10, 11 và tháng 12 đã đổi thành tháng thứ 7,8,9 và thứ 10 rồi xếp theo tuần tự.
Thời gian sau này các vị Hoàng Đế La Mã của mỗi chính thể đã đặt tên mới cho những tháng, ví dụ như: tháng Chín (September) gọi là “Germanucus”, “Antonius” và “Tacitus” tháng 11 (November) có tên khác là “Domitianus”, “Faustinus” và “Romanus”.
Vì những sự bất tiện đó đã thúc đẩy vua Julius Caesar thiết lập nên một bộ Lịch mới. Lịch này được phát minh bởi nhà Thiên Văn Học người Hy Lạp Alexandria (tính hệ thống thời gian cho Lịch theo mặt trời). Caesar muốn thay đổi ngày đầu năm từ ngày 01 tháng Giêng mà ông cho là hợp lý nhất, sẽ phù hợp với một trong những điểm chí(Solstices) hay điểm phân (Equinoxes) và tiết khí.
Tuy nhiên, điều đó đã được xảy ra vào ngày 01 tháng Giêng 45 năm trước Công Nguyên trùng với ngày tháng của trăng non (new moon). Đây là điều không may và có nhiều dân chúng đặc biệt quan tâm muốn thay đổi nó.
Trong bộ Lịch được canh tân của ông đã được Thượng Nghị Viện thăng thưởng cho ông một vinh dự là dùng tháng sinh nhật của ông (Quintilis) đổi tên là tháng Bảy (July) để tưởng nhớ tới ông. Đến đời cháu của vua Caesar là Hoàng Đế Augustus cũng có một tưởng thưởng danh dự tương tự để trao tặng cho ông được đổi tên Sextilis thành tháng 8 “August” , vì ông có công sửa sai trong sự tính toán của năm nhuần.
Lịch này không có những sửa đồi quan trọng nào cho đến năm 1582 khi Giáo Hoàng Gregory XII nhậm chức ông đã hợp nhất phương pháp tính Lịch hiện đại để phân chia tháng năm. Giáo Hoàng sửa đổi và xác nhận ngày của năm mới là ngày 01 tháng Giêng bất chấp mọi chống đối của các hiệp hội tín đồ Cơ Đốc Giáo.
Trong bản sửa đổi của Gregorian đã hủy bỏ 10 ngày trong tháng 10. Ngày thứ năm là ngày 04/10/1582. và tiếp theo là ngày thứ sáu 15/10/1582. Sự khác biệt trong lối tính Lịch trước đây đã cung cấp những ngày của năm nhuần trong một thế kỷ chia theo tỷ lệ 400. Như vậy những năm 1700,1800 và 1900 đều là không phải năm nhuần mà năm 2000 sẽ là năm nhuần.
Sự tiếp nhận toàn cầu: Với những quốc gia Công Giáo thì tiếp nhận ngày “New Year” sớm nhất, sau đó đến những quốc gia theo đạo Tin Lành, cuối cùng là Đức Quốc chấp nhận ngày “New Year” năm 1700, Anh Quốc năm 1752 và Thụy Điển năm 1753. Đó là sự cần thiết để xóa bỏ 11 ngày trong Lịch của năm nhuần 1700.
Những nước Phương Đông ảnh hưởng của nhiều nhóm tôn giáo như Hindus, đạo Lão, Phật Giáo, Hồi Giáo nhưng họ cũng dùng giống như Lịch của tín đồ Cơ Đốc Giáo. Nhật Bản chấp nhận ngày “New Year” Dương Lịch vào năm 1873 và Trung Quốc 1912.
Những tôn giáo dòng chính thống của Đông Phương cũng nhận ngày Tết Dương Lịch muộn hơn vào năm 1924 và 1927, Nga Sô chấp nhận nó trong hai lần, lần đầu tiên năm 1918 và lần thứ hai 1924.
Ngày 01 tháng Giêng chính thức là ngày Tết Dương Lịch (New Year) căn cứ theo Lịch “Gregorian Calendar” được hầu hết các Quốc Gia sử dụng.
Các nhà thờ chính thống Đông Phương thì ngày Tết truyền thống rơi vào ngày 14 tháng Giêng (tức là ngày 01 tháng Giêng với lịch Julian Calendar). Thông thường họ dùng cả hai Lịch “Gregorian Calendar” và “Julian Calendar”.
Các Quốc Gia như: Bulgaria, Cyprus, Egypt, Greece, Poland, Romania, Syria và Turkey đều ăn Tết vào ngày 01 tháng Giêng.
Những nhà thờ dòng chính thống ở Georgia, Jerusalem, Russia và Serbia thì dùng Lịch “Julian Calender”.
.