Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012

Chuyện một vụ án

Đấy là vào mùa hè năm 2006.Một cô bạn bỗng gọi cho tôi và khẩn khỏan nhờ tôi đi dịch giúp một trường hợp. Cô ấy nói là rất bận, không thể đi được, và ở Bungari chỉ có mỗi tôi và cô ấy là người được giấy phép của Bộ ngoại giao nước bạn cho phép đi phiên dịch các trường hợp quan trọng như thế. Đó là một vụ án, liên quan tới tính mạng của một công dân Việt nam. Tôi đành nhận lời, mặc dù trong thâm tâm thấy chẳng thích thú chút nào.Ngay ngày hôm đó, tôi nhận được liên tục các cú điện thoại, một của một bà Thư kí phiên tòa, một của ông luật sư / ông ta được nhà nước chỉ định đi bào chữa cho bị cáo/, rồi sau đấy là điện thoại của một cảnh sát, và cuối cùng là của một người bạn của bị cáo. Tất cả những người này tôi đều không quen biết, có lẽ sau khi nhận lời cô bạn, cô ấy liền cho họ số máy của tôi. Và thế là họ bắt đầu quấy rầy tôi với những cú điện thoại giật gân của họ. Thoạt tiên, bà thư kí của phiên tòa gọi, hỏi tôi cặn kẽ, tôi là ai, sống bao nhiêu năm ở Bungari,có những bằng cấp gì…Sau cuộc phỏng vấn, bà ta cho biết ngày giờ phiên tòa bắt đầu, dặn dò tôi kĩ lưỡng cách tìmTòa án Thành phố, cách đi qua cửa quay có mấy vị cảnh sát như thế nào, rồi khi qua rồi, phải gọi điện cho bà ta tới nhận diện để dẫn tới phòng xử án ra sao. Tiếp đến là ngài luật sư, nghe giọng tôi đoán là một vị đứng tuổi, ngái ngủ hay lè nhè say rượu cũng chẳng biết. Tôi thất kinh khi nghe ông ta nói cái thứ tiếng Bun bản xứ mà ngay cả những người nước ngoài mới học tiếng chắc cũng nói rõ ràng , mạch lạc hơn ông ta. Ông ấy nói về nội dung vụ án,  cú điện thoại di động 15 phút, một câu chuyện về một người công nhân VN bị bắt, liên quan đến tài sản của một công dân Bungari, trấn lột hay ăn cướp, đại khái thế.Tôi ậm ừ nghe, ậm ừ trả lời và không hỏi gì thêm, hi vọng trong phiên tòa sẽ tìm hiểu kĩ hơn. Rồi tiếp tới cú điện của tay cảnh sát, hỏi tôi quan hệ thế nào với bị cáo, rằng đây là một vụ án nghiêm trọng, nếu tôi đại diện cho anh ta thì phải tới đồn CS số…. gặp ngài…trước khi vào cuộc xử thì mới hi vọng gỡ được rắc rối. Cuối cùng là cú điện của một cô gái / hay một bà già? tôi cũng chẳng hiểu, vì cô ta nói giọng Quảng bình đặc sệt, tôi cố căng tai để nghe mà cũng chỉ hiểu láng máng. Cô ấy kể lể sự tình, giảng giải rằng  bồ của cô là bạn của bị cáo, vì thương bồ, thương bạn của bồ nên gọi cho tôi, đề nghị tôi hãy tìm mọi cách giải thoát cho nạn nhân. Tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra sao, chỉ trả lời rằng tôi sẽ quan tâm, rồi cúp máy. Suốt từ hôm đó cho tới ngày phiên tòa đầu tiên bắt đầu, tôi mất ăn mất ngủ, cố gắng đấu tranh tư tưởng để không gọi lại cho bất kì người nào trong số mấy người trên, nhất là cho tay cảnh sát, vì ông ta vừa dọa dẫm, vừa mời chào vòi vĩnh, một kiểu kiếm ăn quen thuộc của cảnh sát nước này nếu có bất kì chuyện gì xảy ra liên quan đến người ngoại quốc, nhất là người Tàu hay người Việt.
·        Thế rồi ngày đó cũng tới.Để gây ấn tượng, tôi mặc bộ quần áo nghiêm chỉnh nhất, sơmi trắng,cổ kéo cao cứ như các bà mệnh phụ, tóc chải bồng lên, xịt một chút gôm, một chút nước hoa loại đắt tiền của Etste Lauder con trai mua cho, tay ôm một chiếc cặp rất xịn. Tôi cầm thêm chiếc ví nhỏ xíu da nai, đi đôi giày cao gót cùng màu hiệu Eko sang trọng.Tôi muốn thể hiện rằng, cho dù có những công dân VN ở đây phạm tội, nhưng cũng có những người như tôi, đàng hoàng, học thức, và chắc chắn sẽ không để ai bắt nạt được. Thầm nghĩ, biết đâu lại là loại tội phạm nguy hiểm, mình buộc phải phiên dịch cho hắn, phải chứng tỏ mình là người không liên quan gì đến cái thế giới ngầm của hắn, không để bọn cảnh sát nghĩ rằng mình với hắn có những ràng buộc gì cả. Nếu cần thiết, mình sẽ đấu tranh cho hắn, giúp hắn cung khai, nhưng nhất thiết không để nhà chức trách Bungari nghĩ rằng người VN ở đây toàn loại đầu đường xó chợ hay băng đảng Mafia. Sau khi đỗ xe vào nơi qui định, tôi ngẩng cao đầu bước vào con đường dẫn đến Tòa án Thành phố. Ở châu Âu, các ngôi nhà được dùng vào việc xử án bao giờ cũng rất đồ sộ, trang nghiêm, ngoài trạm gác ngay lối cổng, ngăn không cho xe cá nhân vào/ chỉ mở cho các vị quan trọng của Tòa hoặc khi cần thiết/, sau đó là hai cánh cửa cao khoảng 3,5m, rộng phải tới 2m một cánh, bằng gỗ gì chẳng rõ hay bằng sắt nhưng có hoa văn rất đẹp. Ngay cạnh cửa là một viên cảnh sát đứng, hỏi giấy tờ tùy thân, rồi cho đi qua máy soi hành lí như ở trên sân bay. Tôi phải lần lượt tháo hết mọi thứ trên người cho họ kiểm tra, cả chiếc túi đeo vai nhỏ xíu cũng bị lục soát. Sau cánh cửa này là một tiền sảnh rộng, rất đông người đứng đó, chắc họ cũng như tôi, phải gọi điện chờ người tới dẫn lên phòng xử án. Rốt cục rồi cũng xuất hiện một người đàn bà to béo, tới gọi tên tôi. Bà ta nhìn tôi từ đầu đến chân, rồi chẳng nói chẳng rằng, ra hiệu cho tôi đi theo .Bà ta trông hiền từ, chắc cũng sắp tới tuổi về hưu sau suốt cuộc đời làm nghề thư kí của Tòa án, chứng kiến biết bao kiểu đau khổ và sung sướng của các thân phận sau tiếng búa gõ của vị Quan tòa.
  Tôi đưa mắt nhìn khắp lượt, từ vị quan tòa, bà thẩm phán, bà công tố viên cho tới ông luật sư…tất cả đổ dồn mắt về phía chúng tôi.Rất nhanh, tôi hiểu ra đây là cơ hội của hắn. Tôi nhún vai, nhìn thẳng vào vị quan tòa, nói rất khẽ đủ để hắn nghe thấy : “ Chỉ cần cậu mấp máy mồm thôi cũng được”. Thế rồi tôi bắt đầu nói bằng tiếng Bun, kể lại thứ tự các điều xảy ra, cứ như tôi chính là hắn.Tôi chỉ có đúng 10 phút đọc hồ sơ của hắn trước khi bắt đầu phiên tòa, cộng với lời trình bày của ông luật sư trước tòa cách đấy vài phút,không hiểu điều gì đã thôi thúc  làm tôi nhớ được tất cả, và đã kể lại vanh vách mọi chuyện cứ như tôi là người trong cuộc. Chỉ khác một điều, đôi khi tôi phải dừng lại,cứ như chờ hắn thốt lên được thêm vài lời để rồi dịch tiếp. Còn hắn, cái thân phận bé nhỏ, cô đơn kia cứ cúi gầm đầu xuống, lí nhí cái gì trong cổ họng mà kể cả tôi đứng sát cạnh hắn cũng chẳng hiểu hắn thốt lên cái gì. Nhưng dù sao thì chúng tôi cũng đã thành công trong các vai của mình.Tôi nói thay hắn, rằng không hề quen biết người đàn ông bị mất của, rằng bị bắt giữ rất oan trái, rằng hắn đi làm ở các công trường lưu động, không hề có nhu cầu tới các đồ dùng kia,rằng hắn có 1 con nhỏ chưa đầy 3 tuổi ở Varna, cách Thủ đô gần 500km, với 1 cô gái Bungari/ điều này thì hắn vừa kịp nói với tôi cách đây vài phút/, không hôn thú nhưng có giấy chứng sinh là con hắn. Cái điều cuối cùng này đã cứu hắn/ tôi thầm nghĩ/, rồi tôi kể lể về đứa con của hắn, rằng vợ hắn nghèo, đang thất nghiệp, hai mẹ con chỉ trông chờ vào những đồng lương của hắn, rằng hắn ở tù vô tội đã 8 tháng rồi, không có liên lạc gì được với vợ con, lo lắng vợ con bơ vơ không ai giúp đỡ v..v. Lúc này, tôi nhận thấy thái độ của các vị trong phiên tòa gần như thay đổi hoàn toàn. Bắt đầu là sự ghẻ lạnh, khinh bỉ, dần dần họ trở lên quan tâm,thân thiện hơn. Vị quan tòa ngắt lời tôi mấy lần khi nghe nói điều này, ông ta hỏi địa chỉ vợ hắn, số điện thoại để liên lạc, rồi hỏi hắn tại sao hắn không có giấy tờ tùy thân? Tôi quay lại phía hắn, dịch từng chữ cho hắn nghe. Thì ra, hắn thuộc diện công nhân sang Bun xuất khẩu lao động giai đoạn 1980-1990. Sau  khi hết hạn hợp đồng, biết là có trở về VN cũng chẳng kiếm đủ nuôi thân nên hắn đã quyết định ở lại. Nếu hắn như những người Việt nam khác khi hết hạn hợp đồng lao động,ngay lập tức có thể mở công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc kí tiếp hợp đồng lao động với những công ty xây dựng khác, hợp pháp hóa việc định cư…,nhưng hắn đã bỏ qua việc này bằng một cái chặc lưỡi, mặc kệ, được đâu hay đó, kiếm được đồng nào vui vẻ bạn bè, gái gú, rượu chè vui chơi. Rồi thời gian trôi qua, khi mà tên hắn đã bị xóa khỏi danh sách đội ngũ xuất khẩu lao động, hắn chẳng còn chỗ nào mà bấu víu nữa. Hai chục năm sống trên đất khách quê người, hắn chẳng nói nổi 1 câu tiếng Bun cho đúng ngữ pháp.Tuổi thanh niên của hắn cũng trôi đi trên các công trường xây dựng, bữa đói bữa no, lúc vui lúc buồn, bạn bè chỉ có vài thằng đồng hương cùng cảnh ngộ. Đi làm chui, không hợp đồng lao động, không trả thuế thu nhập, không trả bảo hiểm…hắn chẳng có tên ở đâu cả, vì thế mà Vụ ngoại kiều Bungari không thể cấp cho hắn giấy tờ tùy thân. Khi sự việc trên xảy ra, hắn đang làm cho 1 công trường cùng anh bạn người Thổ nhĩ kì, nhưng anh ta có hợp đồng lao động, có giấy chứng minh thư, lại không có bằng cớ,tang chứng về vụ trấn lột, cảnh sát không có quyền giữ anh ta quá 72 giờ trong trại giam. Còn hắn, kể cả muốn thả hắn ra, họ cũng không thả được, vì họ buộc phải giữ hắn, vì vụ trấn lột xảy ra phải có kẻ phạm tội. Mà tội của hắn là gì? Khi bắt  hắn, họ chỉ tìm thấy một quyển hộ chiếu Việt nam duy nhất trong người, mà tại đất nước này nó chỉ có giá trị chứng minh hắn là một công dân Việt nam mà không chứng minh được sự tồn tại hợp pháp của hắn. Đó chính là điều phạm luật thứ nhất. Rồi phiên tòa kết thúc với một kết luận: Hắn phải đem trình các giấy tờ liên quan đến vợ con, hắn phải mời vị giám đốc công ty nơi hắn đang làm việc đến nhận dạng, phải trình các hợp đồng lao động /nếu có/,rồi sau đó họ mới xem xét về tội trạng của hắn, tất nhiên, cũng như đối với tên người Thổ, cảnh sát chẳng thu được bất kì tang chứng gì liên quan đến vụ trấn lột.
·        Suốt thời gian gần 1tiếng đồng hồ, sau khi đã lấy lại được bình tĩnh,tôi nói không nghỉ, kể lại tất cả những điều trên với một thái độ hết sức thành thật .Cả phiên tòa lắng nghe tôi trình bầy, họ quên mất rằng kẻ bị cáo là hắn chứ không phải tôi, đôi lúc, tôi trả lời họ ngay mà chẳng thèm quay sang hắn để nghe hắn nói, vậy mà họ cũng lờ đi, chẳng có ý kiến gì. Khi ông quan tòa gõ búa tuyên bố phiên tòa kết thúc, xác định ngày của phiên tòa tiếp theo, tôi thấy tất cả hình như thở phào, mặc dù chẳng đi tới một kết luận gì.Trước khi cho tay vào còng số 8 cho tên cảnh sát đưa trở lại trại giam, hắn quay sang tôi, nói lí nhí mấy lời cám ơn, dúi vào tay tôi một mẩu giấy bẩn thỉu xé từ góc báo, ghi một số điện thoại và tên một người bạn của hắn. Tôi buột miệng hỏi : “ Cậu có cần tiền không?” Hắn dạ rất khẽ, bảo rằng ở đó có thể mua cafe trên máy tự động bằng tiền xu. Tôi vội vã lần ví dốc hết các đồng xu dúi vào tay hắn, nhưng ngay lập tức tên cảnh sát khoát tay ra hiệu không được phép, rồi lôi hắn ra khỏi căn phòng. Phiên tòa thứ nhất kết thúc ở đây.Suốt chặng đường về nhà tôi suy nghĩ miên man, trong tôi tình cảm vừa thương ,vừa giận lẫn lộn. Thương vì hắn quá khổ, quá kém cỏi và ngu dốt, thật đáng tội nghiệp. Giận vì cả một cơ chế bộ máy nhà nước quan liêu, công kềnh, chỉ có vậy mà một lũ các quan chức bỏ cả nửa ngày ra để xét xử, rồi cũng chẳng đi tới một kết luận gì.

·       
Tôi đã làm tròn nhiệm vụ người phiên dịch sau 4 phiên xử án. Những phiên tiếp theo cũng vẫn ngần đó nhân vật, thậm chí, họ còn gọi thêm khoảng 5-7 nhân chứng nữa  cho có đủ dữ kiện về các kết luận của mình. Đó là ông giám đốc công ty nơi bị cáo đang làm “ chui”, không hợp đồng, không bảo hiểm. Ông ta cũng phải chịu một án phạt vì tội này. Đó là ông gác cổng công trường, làm chứng cho hắn rằng thời gian xảy ra vụ việc trấn lột, hắn đang có mặt tại nơi làm việc, đó là một cô gái Bungari, nhỏ thó, mặt rất xinh nhưng cằn cỗi như hắn, mang theo một thằng bé cũng còi cọc như thế, tóc đen, mắt đen, da cũng đen, chẳng có một chút gì thể hiện rằng mẹ nó là người châu Âu, ngoài mỗi cái mũi rất thẳng và cao. Tất cả mọi người, bối rối, ngán ngẩm nhìn hắn, nhìn nhau… và , phiên tòa thứ 4 kết thúc với tiếng búa gõ cạch của viên quan tòa, kết luận hắn vô tội trong vụ trấn lột, nhưng  vì  hắn không có đủ các giấy tờ hợp lệ như thẻ căn cước, giấy kết hôn nên hắn được thả ra với một khoản tiền nộp phạt 500 leva. Chính người bạn đồng hương có số điện thoại trong cái mẩu giấy báo bẩn thỉu hắn đưa cho tôi đã giúp hắn số tiền trên, kết thúc10 tháng 21 ngày tù tội vô lí. Khi nghe tôi thông báo điều này, anh ta rối rít vui mừng, vội vã đến tìm tôi, nghe tôi dặn dò cách thức gặp ông luật sư để làm các thủ tục xuất tù cho hắn.
Bây giờ đã gần 4 năm trôi qua kể từ ngày xảy ra vụ án kể trên, đôi khi hắn vẫn gọi điện cho tôi, rất thật thà kể lại dăm điều về cuộc sống hiện tại của hắn. Lần nào nghe điện, câu hỏi của tôi cũng là: “Cậu đã làm xong giấy tờ tùy thân chưa?” , và câu trả lời của hắn vẫn không thay đổi: “ Chưa chị ạ”, rồi bắt đầu kể lể các khó khăn, phức tạp, rắc rối về thủ tục hành chính của nước Bun, than phiền về công ăn việc làm…
Mọi chuyện có khởi đầu thì cũng phải có kết thúc, cho dù là hay, dở gì thì rốt cục, mọi tấn trò đời đều có phút hạ màn. Bài học lớn nhất cho những ai muốn kiếm sống nơi đất khách quê người là phải có đủ kiến thức hiểu biết về luật pháp. Để tồn tại, không đơn giản chỉ biết có lao động. Hắn lao động, hắn không ăn cắp ăn trộm của ai cái gì, và như vậy là hắn có quyền tồn tại. Nhưng, sự tồn tại của hắn không được xã hội xung quanh thừa nhận, hắn không chứng minh được : HẮN LÀ AI? Điều thứ hai: Hậu quả của sự thiếu hiểu biết cộng với thói quen cẩu thả của những con người không có học hành tới nơi tới chốn, nếp sống “ nước chảy bèo trôi”, tặc lưỡi cho qua ngày, đã cho hắn một bài học đích đáng. Hơn mười tháng tù giam, không được liên lạc với bất kì ai, đói khát và bị khinh rẻ, với một tội duy nhất là do hắn đã không biết tự vệ chính mình. Và  cứ thế..... hắn tiếp tục sống cho tới hôm nay./.
 
 

 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét